Quyết định giám đốc thẩm số: 04/2010/KDTM-GĐT ngày 20 tháng 01 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh
28/05/2016
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA KINH TẾ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Linh;
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải;
Ông Nguyễn Văn Tiến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ngọc Bình-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.
Ngày 20 tháng 01 năm 2010, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo Quyết định số 37/QĐ-KNDGĐT-V12 ngày 17/11/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 129/2008/QĐST-KDTM ngày 05/8/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH công nghiệp và thương mại Á Châu; có trụ sở tại số 142 trần Duy Hưng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, do ông Trần Quốc Cường, Giám đốc Công ty đại diện;
Bị đơn: Công ty TNHH Bình Minh; có trụ sở tại số 7 lô 1C, khu đô thị Trung Yên, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, do ông Nguyễn Mạnh Tuấn-Kế toán Công ty đại diện theo Giấy ủy quyền (số 34) ngày 26/6/2008 của Giám đốc Công ty;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đinh Văn Kính và bà Nguyễn Thị Hợi, cùng trú tại số 142 Trần Duy Hưng phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
NHẬN THẤY
Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/4/2008 và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì:
Ngày 05/01/2003, Công ty TNHH Bình Minh (sau đây viết tắt là Công ty Bình Minh) và Công ty TNHH Á Châu (sau đây viết tắt là Công ty Á Châu) đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh số 01/B-ALCOM/2003 để cùng hợp tác sản xuất đá xây dựng theo giấy phép khai thác mỏ đá Núi Bịch-Núi Sò thuộc xã Đông Xuân, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Theo các điều khoản (tóm tắt) của hợp đồng này thì tổng số vốn hợp tác của hai bên là 51,77 tỷ đồng, trong đó Công ty Bình Minh góp 44,77 tỷ đồng, Công ty Á Châu góp 07 tỷ đồng và chia làm 2 kỳ: kỳ 1 góp 2 tỷ đồng đến tháng 3/2003, kỳ 2 góp số còn lại đến ngày 30/6/2003; Thời hạn hợp tác là 36 tháng, hàng tháng Công ty Bình Minh ứng cho Công ty Á Châu chi phí…; lợi nhuận chia theo tỷ lệ góp vốn và chỉ được phân chia khi thanh lý hợp đồng. Vào ngày 18/3/2003, hai bên ký Phụ lục hợp đồng, theo đó Công ty Bình Minh sử dụng vốn của Công ty Á Châu theo 05 hạng mục (bằng máy móc, thiết bị) trị giá 5 tỷ đồng; hàng tháng Công ty Á Châu được nhận lợi nhuận ứng trước là 22 triệu đồng. Công ty Bình Minh cam kết sẽ thanh toán tiền vay và lãi suất phát sinh do Công ty Á Châu vay của ngân hàng. Để bảo toàm cho vốn góp hợp tác kinh doanh của Công ty Á Châu, Công ty Bình Minh cam kết sẽ giao các giấy tờ (bản chính) csc tài sản là máy móc, thiết bị thuộc sở hữu của mình cho Công ty Á Châu giữ. Nếu Công ty Bình Minh không thanh toán tiền vay gốc và lãi cho ngân hàng thì Công ty Á Châu có quyền phát mại các tài sản trên của Công ty Bình Minh.
Để vay được 5 tỷ đồng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh quận Hoàn Kiếm, ông Đinh Văn Kính và bà Nguyễn Thị Hợi đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà tại số 142 Trần Duy Hưng phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội đã bảo lãnh cho Công ty Á Châu theo Hợp đồng bảo lãnh bằng thế chấp tài sản ngày 26/3/2003.
Thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 01 nêu trên, tính đến ngày 20/7/2003, Công ty Á Châu đã chuyển đủ 5 tỷ đồng cho Công ty Bình Minh. Đến hạn theo cam kết của hợp đồng hợp tác kinh doanh, theo phụ lục hợp đồng, Công ty Bình Minh không thực hiện nghĩa vụ trong khi đó Công ty Á Châu có nhiều văn bản yêu cầu, còn Công ty Bình Minh có nhiều văn bản cam kết thanh toán nhưng không thanh toán. Vì vậy, ngày 17/4/2008, Công ty Á Châu khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội với yêu cầu buộc Công ty Bình Minh phải thanh toán các khoản sau: Vốn góp 3,117 tỷ đồng; lãi phát sinh là 1.247.993.517 tỷ đồng; lợi nhuận được hưởng là 2/302.800.000 đồng và khoản bồi thường thiệt hại là 1 tỷ đồng.
Đại diện bị đơn-Công ty Bình Minh trình bày: thừa nhận việc ký kết hợp đồng hợp tác liên doanh như nguyên đơn trình bày là đúng. Tuy nhiên, cho rằng thực chất là Công ty Á Châu cho Công ty Bình Minh vay tiền. Công ty thừa nhận có nhận 2 tỷ đồng tiền mặt từ Công ty Á Châu, số tiền còn lại phải kiểm tra lại số liệu. Công ty Bình Minh sẽ trả lãi ngân hàng mà Công ty Á Châu đã vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh quận Hoàn Kiếm, đồng thời sẽ trả lại lợi nhuận cho Công ty Á Châu nhưng giữa hai bên phải có đối chiếu. Riêng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại 1 tỷ đồng, Công ty không đồng ý vì đây là hợp đồng hợp tác kinh doanh, lời ăn, lỗ chịu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Kính và bà Hợi thì thừa nhận có lý hợp đồng bảo lãnh để Công ty Á Châu vay 5 tỷ đồng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh quận Hoàn Kiếm, trong đó khoản vay ngắn hạn là 1,5 tỷ đồng và khoản vay trung dài hạn là 3,5 tỷ đồng. Ông, bà đề nghị Công ty Bình Minh trả nợ Ngân hàng để giải chấp tài sản bảo lãnh.
Trong quá trình giải quyết vụ án này, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã lập 04 biên bản hòa giải với sự tham gia của các bên đương sự, bao gồm ngày 29/7/2008; ngày 11/8/2008; ngày 20/8/2008 và Biên bản ngày 29/8/2008.
Trên cơ sở Biên bản hòa giải ngày 29/8/2008 với sự tham gia thỏa thuận và ký vào biên bản của các bên đương sự nêu trên, cùng ngày, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội lập biên bản (7 ngày), vì không nhận được ý kiến phản đối của đương sự nên ngày 05/9/2008 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 129/2008/ QĐST-KDTM với nội dung như sau:
1. Công ty Bình Minh công nhận số vốn góp còn lại của Công ty Á Châu theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 01/B-ALCOM/2003 ký ngày 5/1/2003 như sau: số vốn góp còn lại là: 3.117.000.000 đồng, số tiền lãi phải trả ngân hàng tính đến 18/3/2008 là 1.247.993.517 đồng. Khoản lợi nhuận Công ty Á Châu được hưởng tính đền ngày 2/4/2008 là 2.302.800.000 đồng. Tổng cộng các khoản trên là 6.667.793.517 đồng.
2. Toàn bộ số tiền trên Công ty Bình Minh cam kết thanh toán cho Công ty Á Châu theo kế hoạch như sau:
Lần 1: Hạn cuối cùng là ngày 28/11/2008 thanh toán là 3.117.000.000 đồng.
Lần 2: Hạn cuối cùng là ngày 20/12/2008 thanh toán là 3.358.793.517 đồng.
Ngày 25/5/2009, Công ty Bình Minh có đơn đề nghị xem xét lại quyết định nêu trên của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội theo thủ tục giám đốc thẩm.
Ngày 17/11/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có Quyết định số 37/QĐ-KNGĐT-V12 kháng nghị đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 129/2008/QĐST-KDTM ngày 05/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy quyết định nêu trên của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại theo quy định của pháp luật với nhận định như sau:
“Về tố tụng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội vi phạm như sau:
Biên bản hòa giải thành ngày 29/8/2008 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết hướng dẫn tại mục 6, phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 2/5/2006 của Hội đồng thẩm phán về việc hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự . Các đương sự tham gia phiên hòa giải không ký tên hoặc điểm chỉ vào biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành không được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 129/2008/QĐST-KDTM ngày 05/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không gửi cho Công ty Bình Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự, Công ty Bình Minh chỉ nhận được quyết định thi hành án thì mới biết có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên.
Do vậy, cần phải xem xét lại nội dung vụ án để đảm bảo quyền lợi của các đương sự”.
XÉT THẤY
Theo quy định tại khoản 2 Điều 186 B thì “Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điemr chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chứ ký của Thư ký Tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải”. tại tiểu mục 6.2 mục 6 phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 2/5/2006 của Hội đồng thẩm phán về việc hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự, đã hướng dẫn: “Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án, thì Thẩm phán hoặc Thư ký Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải ghi cụ thể nội dung thỏa thuận của các đương sự theo đúng mẫu biên bản hòa giải thành ban hành kèm theo Nghị quyết này. Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải phải ký tên và đóng dấu của Tòa án vào biên bản. Các đương sự tham gia phiên hòa giải phải ký tên hoặc điểm chỉ vào biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải…”. Tại Công văn số 107/VKHXX ngày 23/6/2006 của Tòa án nhân dân tối cao đã thông báo đính chính mẫu biên bản hòa giải thành, theo đó: “…Khi soạn thảo và in ấn mẫu biên bản hòa giải thành (mẫu số 08) ở phần cuối của mẫu này đã để sót các chữ: “các đương sự tham gia phiên hòa giải (chứ ký hoặc điểm chỉ). Họ và tên”. Tòa án nhân dân tối cao đã đính chính mẫu biên bản hòa giải thành và gửi kèm theo Công văn này để Tòa án nhân dân các địa phương thực hiện…”.
Đối chiếu quy định và hướng dẫn đã nêu ở trên với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án này thì thấy: ngày 29/8/2008, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải đã lập biên bản hòa giải thành, trong đó có ghi đầy đủ những nội dung thỏa thuận của các đương sự như trong Biên bản hòa giải ngày 29/8/2008, đồng thời đã ký và gửi ngay biên bản hòa giải thành này cho các đương sự tham gia phiên hòa giải. Tuy nhiên, Biên bản hòa giải thành trên chỉ có chữ ký của Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải và dấu của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, thiếu toàn bộ chữ ký của các đương sự đã tham gia phiên hòa giải ngày 29/8/2008, không thực hiện đúng theo mẫu số 08 mà Hội đồng đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao dã hướng dẫn. Vì vậy, đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, và do đó kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 129/2008/QĐST-KDTM ngày 05/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội là có căn cứ.
Bởi các lẽ trên;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 3 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH
Hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 129/2008/QĐST-KDTM ngày 05/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
CÁC THẨM PHÁN
Bùi Thị Hải Nguyễn Văn Tiến
(Đã ký) (Đã ký)
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thế Linh
(Đã ký)