Quyết định giám đốc thẩm về tranh chấp quyền sử dụng nhà cho thuê của nhà nước
28/05/2016
Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thúy Kim sinh năm 1962; trú tại P205 –A7, khu tập thể Khương Thượng, phường Trung Tự, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Anh Lê Đặng Chi sinh năm 1960; trú tại số 32 xóm Hạ Hồi, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty quản lý và phát triển nhà Hà Nội; trụ sở số 221B Trần Đăng Ninh, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Hà sinh năm 1972.
3. Cháu Lê Khánh Linh sinh năm 1993.
4. Cháu Lê Thu Linh sinh năm 2004.
Cùng trú tại số 32 xóm Hạ Hồi, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 26-4-2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lê Thị Thúy Kim trình bày:
Ông Lê Đăng Chương ( chết năm 2003) và bà Ngô Thị Chỉ ( chết năm 1986) sinh được hai người con là anh Lê Đăng Chi và chị. Từ năm 1960, gia đình chị sinh sống tại nhà thuê của nhà nước tại 32 xóm Hạ Hồi, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Tại hợp đồng thuê nhà số 4848 ngày 28-12-1994, ông Chương đứng tên chủ hợp đồng, các thành viên khác có tên trong hợp đồng bao gồm anh Chi và chị, diện tích nhà thuê tại số 32 xóm Hạ Hồi bao gồm 15m2 nhà chính và 6,06m2 phụ. Từ năm 1989 đến năm 2002, chị đi xuất khẩu lao động tại Liên bang Nga. Khi chị về Việt Nam, anh Chi đã ngăn cản không cho chị sinh sống và nhập hộ khẩu tại 32 xóm Hạ Hồi nên chị và hai con phải đi thuê nhà để ở, không có nơi để đăng ký và nhập hộ khẩu.
Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án buộc anh Chi phải cho chị tiếp tục thực hiện quyền thuê nhà của Nhà nước theo quy định của pháp luật đối với nhà số 32 xóm Hạ Hồi. Cụ thể, chị xin được sử dụng ½ diện tích nhà chính phía bên tay phải từ cửa nhìn vào và ½ diện tích bếp liền kề với phần nhà chính.
Ngoài ra, chị yêu cầu Tòa án phân chia căn nhà cấp 4 có diện tích 11,4m2 do ông Chương, bà Chỉ xây dựng thêm ở phần sân chung của số nhà 32 xóm Hạ Hồi từ năm 1986.
Bị đơn là anh Lê Đăng Chi trình bày:
Diện tích nhà đất gia đình anh đang sử dụng tại 32 xóm Hạ Hồi thuộc sở hữu của Nhà nước. Gia đình anh ở đó đã lâu nhưng đến năm 1994 mới ký hợp đồng đầu tiên với Nhà nước, thời hạn thuê là 3 năm ( tư năm 1991 đến năm 1995) do ông Chương ( cha của anh) là chủ hợp đồng. Thời điểm này chị Kim không có mặt tại Việt Nam và đang đi lao động hợp tác tại Cộng hòa Liên Bang Nga.
Hiện nay, chị Kim vẫn đang định cư tại Nga và có chỗ ở tại Việt Nam là P205 –A7, tập thể Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội.
Hợp đồng thuê nhà số 4848 ngày 28-12-1994 đến nay đã hết hạn và không được ký lại. Chủ hợp đồng là ông Chương đã chết năm 2003, anh và vợ con vẫn tiếp tục thừa kế quyền quản lý, sử dụng nhà. Vì vậy, anh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Kim.
Đối với căn nhà cấp 4 có diện tích 11,4m2 do cha mẹ anh làm thêm năm 1986 đã cũ nát, hiện anh đã xây mới hoàn toàn nên chị Kim không có quyền đòi chia.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 24-3-2005, TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thúy Kim.
Chị Lê Thị Thúy Kim được quyền sử dụng ½ diện tích nhà và ½ diện tích bếp tại 32 xóm Hạ Hồi, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội có trong hợp đồng thuê nhà của Nhà nước số 4848 ngày 28-12-1994.
Phân tích cụ thể như sau:
Phần diện tích nhà chính 15m2 có chiều rộng 3m, chiều dài 5m.
Chị Kim được sử dụng ½ diện tích còn lại phía bên tay trái đứng từ cửa nhìn vào cũng có các chiều 1,5m x 5m.
Anh Chi được sử dụng ½ diện tích bếp liền kề với phần nhà chính được phân định, có các chiều 1,5m x 2,2m.
Anh chị được sử dụng diện tích bếp còn lại phía tay phải đứng từ cửa bếp nhìn vào.
Phần diện tích làm thêm:
Chị Kim được sử dụng ½ diện tích phía tay phải đứng từ mặt ngõ nhìn vào có các chiều 2,45m x 3,25m và được sở hữu vật liệu xây dựng phần nhà mà chị được sử dụng có giá trị là 3.390.960đ.
Anh Chi sử dụng phần nhà còn lại phía tay trái đứng từ mặt ngõ nhìn vào cũng có các chiều 2,45m x 3,25m và được sở hữu vật liệu xây dựng phần nhà mà anh được sử dụng có giá trị là 3.390.960đ.
Việc xây ngăn các diện tích nhà và bếp chị Kim và anh chi tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì người nào đưungs ra xây ngăn người đó phải chịu chi phí và được sở hữu vật liệu xây ngăn đó.
Công ty kinh doanh nhà số 2 Hà Nội có trách nhiệm ký hợp đồng thuê nhà đối với anh Chi, chị Kim theo các diện tích như đã phân định ở trên ( phần nhà, bếp có trong hợp đồng số 4848 ngày 28-12-1994).
Diện tích nhà làm thêm trên đất công anh Chi và chị Kim chỉ được sở hữu vật liệu xây dựng và sử dụng diện tích nhà như đã phân định. Khi Nhà nước có nhu cầu thu hồi đất thì anh Chi, chị Kim phải chấp hành theo quy định chung của pháp luật.
Bác yêu cầu của anh Chi khiếu nại về việc Tòa án giải quyết vụ án là không đúng thẩm quyền và việc anh xây diện tích nhà trên đất công tại 32 xóm Hạ Hồi, Hà Nội.
Ngoài ra, TA cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 11-4-2005, anh Lê Đăng Chi có đơn kháng cáo với nội dung chị Kim đã đi làm việc tại Nga từ năm 1989, khi về Việt Nam đã mua nhà đẻ ở nên không còn nhu cầu sử dụng nhà tại số 32 xóm Hạ Hồi. Tòa án cấp sơ thẩm chia căn nhà cho chị Kim được hưởng ½ là không phù hợp với thực tế. Ngoài ra, TAND quận Hoàn Kiếm thụ lý và đưa vụ án ra xét xử là không đúng thẩm quyền.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 16/2006/DSST ngay 19-01-2006, TAND Tp Hà Nội quyết định:
Hủy bản án số 10/DSST ngày 24-3-2005 của TAND quận Hoàn Kiếm do thụ lý xét xử sơ thẩm vụ án không đúng thẩm quyền.
Giữ lại toàn bộ hồ sơ vụ án tại TAND Tp Hà Nội để giải quyết sơ thẩm theo thủ tục chung.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 32/2006/DSST ngày 7-8-2006, TAND TP Hà Nội quyết định:
Bác đơn đòi quyền sử dụng nhà thuê của Nhà nước đối với diện tích anh Lê Đặng Chi và gia đình đang sử dụng tại số 32 xóm Hạ Hồi, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm của chị Lê Thị Thúy Kim.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định vè án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 17-8-2006, chị Kim có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung chị là người có tên trong hợp đồng thuê nhà số 32 xóm Hạ Hồi, năm 2002 hết hạn làm việc tại Cộng hòa Liên bang Nga chị đã trở về Việt Nam và được các cơ quan có thẩm quyền chuyển trả về địa phương. Khi về Việt Nam mẹ con chị phải ở nhờ tại phòng 205 – A7 khu tập thể Khương Thượng trong khi quyền được ở trong nhà số 32 xóm Hạ Hồi lại bị anh Chi ngăn cản. Ngoài ra, chị còn yêu cầu Tòa án giải quyết phần nhà, đất có diện tích 11,4m2, không nằm trong hợp đồng thuê nhà vì đây là di sản của ông Chương để lại nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận là không đúng.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 168/2007/DSPT ngày 07-8-2007, TAPT TANDTC tại Hà Nội không chấp nhận kháng cáo của chị Kim. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 32/2007/DSST ngày 07-8-2006 của TAND Tp Hà Nội như sau:
Bác đơn khởi kiện đòi quyền sử dụng nhà thuê của Nahf nước đối với diện tích mà anh Lê Đăng Chi và gia đình đang sử dụng tại số 32 xóm Hạ Hồi.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 19-4-2009 chị Lê Thị Thúy Kim khiếu nại.
Tại Quyết định số 629/2010/KN-DS ngày 03-8-2010, Chánh án TANDTC kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 168/2007/DSPT ngày 07-8-2007 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; đề nghị HĐTP TANDTC xét xử giám đốc thẩm tuyên hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 32/2006/DSST ngày 07-8-2006 của TAND Tp Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho TAND Tp Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị HĐTP TANDTC chấp nhận kháng nghị của Chánh án TANDTC.
XÉT THẤY:
Vợ chồng ông Lê Đặng Chương ( chết năm 2003) và bà Ngô Thị Chỉ ( chết năm 1986) cùng hai người con là anh Lê Đặng Chi, chị Lê Thị Thúy Kim quản lý, sử dụng nhà đất của nhà nước tại số 32 xóm Hạ Hồi, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội từ năm 1960 và đã hai lần ký hợp đồng thuê nhà với cơ quan quản lý nhà vào năm 1983 và năm 1984. Theo Hợp đồng thuê nhà số 4848 ngày 28-12 thì các thành viên có tên trong hợp đồng thuê nhà bao gồm ông Chương, anh chi, chị Kim. Từ năm 1989 đến năm 2002, chị Kim đi làm việc có thời hạn tại ộng hòa Liên bang Nga, khi về Việt Nam thì anh Chi ngăn cản không cho chị Kim nhập hộ khẩu và sử dụng nhà số 32 xóm Hạ Hồi. Ngày 26-4-2004, chị Kim khởi kiện yêu cầu anh Chi phải cho chị tiếp tục thực hiện quyền thuê nhà tại nhà số 32 xóm Hạ Hồi. Anh Chi cho rằng mặc dù chị Kim có tên trong hợp đồng thuê nhà số 4848 ngày 28-12-1994 nhưng tại thời ddiemr ký hợp đồng thuê nhà chị Kim không có mặt tại Việt Nam, phụ lục hợp đồng có ghi chú chị Kim “ đi Nga” và cho đến nay hợp đồng thuê nhà trên đã hết hạn nhưng cơ quan quản lý nhà vẫn chưa gia hạn nên chị Kim không có quyền sử dụng nhà số 32 xóm Hạ Hồi từ đó không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Kim.
Thực tế, chị Kim có tên trong hợp đồng thuê nhà, mặc dù chị Kim đi nước ngoài tại thời điểm ký hợp đồng nhưng cơ quan quản lý nhà vẫn chưa thừa nhận quyền thuê nhà đối với chị Kim, trong thực tế chị Kim tham gia vào hợp đồng với tư cách bên thuê nhà. Theo công văn số 2160/QLN ngày 24-11-2004, Biên bản xác minh ngày 26-7-2004 và lời trình bày của đại diện Công ty quản lý và phát triển nhà Hà Nội thì chị Kim vẫn được công nhận là bên thuê nhà có tên trong hợp đồng và hiện nay hợp đồng số 4848 vẫn có giá trị ( do có tranh chấp nên chưa gia hạn tiếp). Theo quy định tại Điều 496 Bộ luật Dân sự năm 1995, Điều 497 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền, nghĩa vụ của những người thuê nhà ở là ông Chương, chị Kim, anh Chi là ngang nhau trong việc thuê nhà. Tuy chị Kim đi lao động ở nước ngoài có thời hạn, nhưng cơ quan quản lý nhà của Nhà nước chưa có văn bản chấm dứt hợp đồng thuê nhà với chị Kim, đến nay chị Kim không có chỗ ở ổn định mà phải ở nhờ tại Phòng 205-A7, khu tập thể Khương Thượng.
Lẽ ra, phải yêu cầu các cơ quan quản lý nhà ở của thành phố Hà Nội xem xét, xác định khi chị Kim đi nước ngoài có thời hạn thì quyền thuê nhà của chị Kim có còn hay không? Và khi chị Kim về nước thì có được tiếp tục thuê nhà hay không, đồng thời xác minh làm rõ nhu cầu thực tế về nhà ở thì mới đủ căn cứ giải quyết vụ án.
Ngoài ra, chị Kim cho rằng 11,4m2 nhà cơi nới là di sản thừa kế của ông Chương nên yêu cầu được chia. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ phần nhà này là do ai xây cất, công sức cụ thể của từng người có tên trong hợp đồng thuê nhà, từ đó xác định phần quyền của ông Chương, chị Kim, anh Chi đối với phần nhà cơi nới này. Trường hợp ông Chương xây cất và nhà được phép tồn tại thì phải xác định giá trị phần quyền của ông Chương là di sản để chia thừa kế theo quy định chung mới đúng.
Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xác minh làm rõ các vấn đề trên nhưng lịa bác yêu cầu của chị Kim là chưa đủ căn cứ.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét xác định phần quyền của ông Chương trong hợp đồng thuê nhà để xác định di sản của ông Chương để chia thừa kế là chưa giải quyết triệt để vụ án.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự ( đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29-3-2011 của Quốc Hội).
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 168/2007/DSPT ngày 07-8-2007 của Tòa phúc thẩm TANDTC và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 32/2006/DSST ngày 07-8-2006 của TAND Tp Hà Nội về vụ án “ Tranh chấp quyền sử dụng nhà cho thuê của Nhà nước” giữa nguyên đơn là chị Lê Thị Thúy Kim với bị đơn là anh Lê Đặng Chi và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty quản lý và phát triển nhà ở Hà Nội, hồ sơ vụ án cho TAND Tp Hà Nội để xét xử chị Nguyễn Thu Hà, cháu Lê Khánh Linh, cháu Lê Thu Linh.
2. Giao hồ sơ vụ án cho TAND Tp Hà Nội để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.